PHỤ LỤC
Vài điều về Cội nguồn họ Hà Duyên
Theo các cụ xưa kể lại, Đức Thủy Tổ họ ta có nguồn gốc ở Hà Tràng, nhưng không rõ Hà Tràng là thôn hay xã, thuộc huyện tỉnh nào ?
Nay qua tìm hiểu, mới biết được mấy nơi có địa danh là Hà Tràng.
1. Làng Hà Tràng, thuộc tổng Hà Trường, huyện Giáp Sơn, trấn Hải Dương.
2. Phường Hà Tràng, thuộc phường Thủy Cơ, phủ Thanh Đô, trấn Thanh Hoa. (Phủ Thanh Đô gồm các huyện miền núi, như Lang Chánh, Ngọc Lạc, Thường Xuân và phủ Thọ Xuân).
3. Làng Hà Tràng, thuộc huyện Quan Hóa.
Vấn đề này thật khó xác định chính xác. Nhưng căn cứ vào khảo dị thì thấy rằng ở Nhà thờ Họ có đôi câu đối:
Hà Duyên kỳ tính thiên tề họ
Canh Hoạch vi gia địa dễ nhân.
Tạm dịch:
Hà Duyên họ lớn bền mạch thọ
Canh Hoạch nay nguồn lấy làm nhà.
Hoặc:
Họ bên sông lâu bền mạch thọ
Đất Canh Hoạch nguôi lấy làm nhà.
Ông tổ họ Hà Đình ở Vân Đô (thuộc Đông Sơn), đến Canh Hoạch sinh sống, sau Đức Tổ họ ta 7 đời. Ông lấy vợ ở Canh Hoạch, sinh con. Sau đó lại chuyển lên Hà Tràng (thuộc Quan Hóa) sinh sống. Khu mộ Tổ ở Cồn Ốc và nhà thờ Tổ của họ ta chỉ cách dòng sông Chu khoảng 100 mét. Trước đây, từ Mục Sơn đến cửa Ba Bông của sông Chu là phường Thủy Cơ. Đó là một đơn vị hành chính như là một huyện của tỉnh Thanh Hóa, nên rất có thể Cụ từ ven sông chuyển lên bờ sinh sống về nghề nông chăng ?
Cụ sinh năm nào, đến vùng đất này từ bao giờ và dưới hình thức gì ? Nay nghiên cứu đối chiếu với các dòng họ khác ở Canh Hoạch và với Gia phả cụ Duyên Thọ - Duyên Thiệu ở Nông Cống, xác định Cụ tới lập nghiệp ở đất này vào khoảng thế kỷ thứ mười bốn, cuối đời Trần.
Đức Thủy Tổ Duyên Phúc, tự Trực Hiền, lấy Bà hiệu Từ Nhân, là người họ Hà Sĩ, sinh ra được 2 ông: ông húy Toàn, tự Duyên Niên và ônh húy Sớm, tự Duyên Tuế.
Ông húy Toàn, tự Duyên Niên, sinh được 2 ông: Duyên Lăng và Duyên Vực. Ông Lăng không có con trai. Ông Vực sinh được 1 trai là Duyên Đặc, tự Duyên Trường. Ông Duyên Trường sinh được 1 trai là ông Duyên Đề. Ông Duyên Đề sinh được 4 trai là: Duyên Thọ, Duyên Thiệu, Duyên Điển và Duyên Cái. Theo thế phả tiền biên tòng tính nguyễn ở Phương Khê, ghi rằng: Triều Lê Hồng Đức thứ 5 (tức năm 1475), cụ Hà Thọ và Hà Thiệu đem theo thủ hạ 15 người đến khẩn hoang tại làng Băng Khê, nay là Vinh Khê thuộc huyện Nông Cống. Hai cụ lập ra thôn Biển Lộn (thuộc huyện Triệu Sơn). (Xem gia phả họ Nguyễn Hà ở Phương Khê, nay là nông trường huyện Triệu Sơn).
Do ông Thọ và ông Thiệu xuống Nông Cống khẩn hoang không trở về nữa, ở nhà thì các ông Điển và ông Cái không có con trai, nên phải lấy cháu 4 đời của ông Duyên Tuế là ông Duyên Miễn lên thờ Tổ. Ông húy Miễn, tự Duyên Phần, hiệu Trực Bình. Vợ là bà Hà Thị Lang, hiệu Từ Huy (là con gái ông Sinh đồ, húy Thiết, tự Phúc Yên, là người khai hoang đầu tiên của xã ta). Bà sinh được 2 trai 1 gái, là ông Thoát, ông Đại, bà Đống. Sau ông lấy bà hai là bà Hà Thị Quỳnh, sinh thêm được ông Tuân và bà Việt.
Ông húy Thoát, tự Duyên Sỹ, hiệu Trực Tiên, lấy bà Hà Thị Tồn, hiệu Từ Hòa, sinh được ông Luận, ông Côn, ông Khâm, ông Đức, ông Khổn, bà Bài, bà Mãi, bà Ức. Ông Côn, ông Khâm và bà Ức đều mất sớm, còn lại ông Luận, ông Đức và ông Khổn, trở thành trưởng Tổ của 3 chi.
Ông Thoát lúc sinh thời, nhà nghèo nhưng tính tình rất khảng khái, “cương như trực – mẫn như tiệp”. Tính kiên quyết mà thẳng thắn, siêng năng mà lịch duyệt. Vì nhà nghèo, cha mất sớm, các em còn nhỏ nên ông phải ở nhà lo làm ăn. Khi đã lớn tuổi ông mới được đi học. Ông theo học với Quan huyện Đỗ Thế Tế, người làng Yên Lãng. Lúc đầu, ông học chậm tiến, cho rằng tại nhà mình nghèo, chưa có đất, nên từ trước tới nay trong họ chưa thấy có ai ăn học thi đỗ gì cả. Với suy nghĩ ấy, ông mời Thầy dạy học là người thông hiểu địa lí, về xem phần mộ Tổ tiên thế nào? Sau khi xem xét, Thầy cho rằng có ngôi mộ Tổ ở Cồn Cốc là bình yên, còn về mặt khoa cử thì chưa có gì nên Thầy mới chọn cho ngôi đất ở Bãi Vẹt và đoán rằng: “nguyên lai mả tích, quá giáp, sinh nhất mộc tinh, mão long nhập thư, hữu biên sinh nhất thần bút hoàn bảo toại lập huyệt tọa mão hướng dậu”. Tạm dịch: “Nguyên xưa ngựa giáp qua về. Rồng vàng cuốn nước sánh kề mộc tinh. Hữu biên thần bút phát sinh. Huyệt lập hướng Dậu, hiển vinh có phần”. Ông bèn đem mộ bà nội, thân sinh ra bố, mà táng vào đó. Về sau, con cháu có người học hành đỗ đạt, đều tin là nhờ có ngôi đất đó.
Bà Tồn (vợ ông Thoát), là con nhà giàu, họ lớn. Nhưng bà rất khiêm tốn, nết na. Từ khi về nhà chồng, bà luôn siêng năng làm lụng, tằn tiện, không hề tỏ ra kiêu căng. “Bất kiêu bất căng, năng cần năng kiệm”. Bà chỉ có một điều mong ước cho chồng được nên người, gia đình nhà chồng nên cơ nghiệp, còn bản thân thì không quản gì khó khăn mệt nhọc. Lúc ấy trong làng có ông bạn thấy gia đình ông có nề nếp và ông là người có học, có đức độ, nên mới vận động nhân dân bàu ông làm xã lại (lý trưởng).
Từ khi nhận chức xã lại, ông rất chăm lo việc công. Với tính cương nghị nên ông được tôn là bậc đàn anh. Người trong ba phiên coi ông là chỗ dựa vững chắc như trụ thạch. Năm 34 tuổi, ông đi thi, trúng tuyển Sinh đồ. Ông là người khai khoa đầu tiên cho họ ta.
Các con ông Thoát đều học khá. Ông Luận (con trai đầu), tự Duyên Ưu, năm 19 tuổi thi trúng Sinh đồ khoa Ất Dậu. Ông Đức (con trai thứ hai), mới 17 tuổi vào trường ứng thi đã lên danh. Người con út là ông Khổn, năm 22 tuổi đi thi cũng trúng cử.
Người con trai thứ 2 của ông Duyên Miễn là ông Đại, tự Duyên Quế, lấy 4 vợ, sinh được 2 trai 4 gái.
Bà cả: Lê Thị Diệu, sinh được Danh Chú, Thị Hỷ, Thị Nội. Nhưng Danh Chú mất sớm.
Bà hai: Hà Thị Trêu, sinh được một gái là Thị Thiệu.
Bà ba: Thị Khiêm, sinh được Danh Tiêu (mất sớm).
Bà tư: Lê Thị Giai, sinh được một gái là Thị Dỹ.
Người con trai thứ ba của ông Duyên Miễn là ông Tuân, cũng chỉ sinh được 2 gái rồi phạp.
[về đầu trang]
Vài điều nghi vấn:
(Ở đây, có lẽ bị đánh máy thiếu. Cần xem lại bản thảo của cụ Hà Duyên Hiếu - Tôi, HDM chú thích)... trong bản gia phả lược ghi: “giai đoạn nghi tồn tứ thế lỡ dĩ tiền”, nghĩa là đoạn từ Đức Tổ đời thứ 4 trở về trước còn có chỗ nghi vấn. Qua nghiên cứu, thấy điều nghi vấn đó là có cơ sở. Trong gia phả cũ ghi: “từ Đức thủy tổ Duyên Thúc đến ông Duyên Thoát là 4 đời” thì chưa đúng, vì ông Thọ, ông Thiệu (là cháu 6 đời của Đức thủy tổ) xuống Nông Cống lập ấp không trở về, nhưng 2 anh em là ông Điển và ông Cái ở nhà đều chỉ có con gái, cho nên phải đến lúc xác định ông Thọ, ông Thiệu không về nữa, và 2 ông em ở nhà đã chết hoặc ít nhất cũng không còn khả năng sinh đẻ nữa thì mới lấy người chi dưới; ngang hàng với con ông Thọ, ông Thiệu, lên thờ Tổ được.
Vì vậy, ông Miễn lên lập tự phải là đời thứ 7, chứ không thể là đời thứ 3 như ghi trong gia phả cũ.
Mặt khác, theo gia lễ thời trước, chỉ khi nào một người nào đó được xác định lên lập tự hay thừa tự thì mới được lập thần chủ để thờ lâu dài, còn lại cứ 5 đời mai thần chủ. Cho nên, những người con ông Sớm trước ông Thoát không được đưa vào thờ chính mà phải đưa sang phụ vị.
Một lẽ nữa là: Đức Tổ đời thứ 4 là ông Thoát sinh năm Ất Tỵ, mà ông Đại là con ông Thóat, là người sinh ra Bà Chúa Hà Thị Dỹ lấy vua Lê Thánh Tông. Mà vua Lê Thánh Tông sinh năm 1442, lên làm vua năm 1460. Như vậy ông Thoát sinh năm Ất Tỵ phải trúng vào năm 1365. Nhưng bà Tồn (vợ ông Thóat), sinh năm Kỷ Dậu. Mà ông Luận, con trai bà Tồn lại sinh vào năm Bính Dần, như vậy cách nhau 14 năm hoặc 74 năm đều không đúng. Vì 14 tuổi chưa thể sinh đẻ được dù là tảo hôn, hoặc 74 tuổi thì lại không còn khả năng sinh đẻ nữa. Như vậy, ông Luận là thừa tự chứ không phải là con đẻ của ông Thóat. Có thể lúc đầu chưa có sự ghi chép theo dõi đầy đủ. Nhiều đời sau con cháu mới viết gia phả thì không thể nào ghi nhớ chính xác được nên trong gia phả cũng như trong thần chủ cụ Tổ đời thứ 4 trở về trước ghi chép rất sơ sài, không ghi rõ năm sinh, năm mất của các cụ. Mặt khác, vào năm 1870, nhà thờ Họ bị cháy, gia phả bị mất, sau đó các cụ mới hồi ký lại, có thể bị sót. Cho nên theo Gia phả cũ ghi lại, tính từ đức Thủy Tổ đến nay mới 16 đời là chưa đúng. Nhưng qua tính toán về tuổi thọ bình quân trong Họ, theo niên biểu sự tích Bà Chúa, và đối chiếu với các dòng họ khác ở trong xã, cũng như gia phả các Chi của các cụ Hà Thọ - Hà Thiệu ở Nông Cống, thì thấy rằng: ông Tổ họ Hà Sỹ đến ở xứ đất này (cùng thời với đức Tổ họ Hà Duyên) đến nay cũng đã 19 đời. Ông húy Thuộc, hiệu Trực Nghi, con nuôi cụ Duyên Tuế, sau trở thành Thủy Tổ họ Trịnh, đến nay cũng đã 15 đời. Ông Hà Thọ - Hà Thiệu, cháu đời thứ 5 của Đức Thủy Tổ, xuống Nông Cống khẩn hoang, đến nay cũng đã 16 đời. Trên cơ sở đó, cho phép xác định rằng:
Từ khi Đức Thủy Tổ Duyên Thúc đến xứ này lập nghiệp, đến nay (1996) là 20 đời, với trên 160 hộ và gần 780 nhân khẩu. Trong đó có 418 nam, 362 nữ.
Từ đời thứ 5, cành cụ Duyên Tuế phát triển thành 3 chi. Chi trưởng và chi thứ 2 phát triển mạnh. Chi thứ 3 trải qua 7 đời gồm 245 năm thì phạp.
Được biết, vào khoảng năm 1913, có ông Hà Duyên Hạng ở chi thứ 3 tự nhiên bỏ đi đâu không thấy trở về, không biết có còn tông tích gì không? Nếu không còn tông tích gì thì cành cụ Duyên Tuế từ năm 1946 trở về sau chỉ còn 2 chi: Chi trưởng của ông Luận, và chi thứ 2 của ông Đức.
Việc ông Thọ, ông Thiệu trong Họ ta li Tổ ra đi lập nghiệp ở nơi khác, không phải là trường hợp duy nhất. Theo các cụ kể lại, trước đây có ông Hà Văn Mao (Cai Mao) ở Quan Hóa đã có lần đến nhận họ hàng, nhưng ta không dám nhận vì lúc bấy giờ đang có phong trào Văn Thân chống Pháp, mà ông Cai Mao là một trong những thủ lĩnh của Văn Thân. Sợ liên lụy về chính trị nên các cụ bàn nhau giấu gia phả và không công nhận. Việc này lại được ông giáo Vực thuộc ngành cụ Duyên Thọ ở Nông Cống xác nhận thêm là có gặp ông Hà Triều Nguyệt (con ông Cai Mao) ở Bưu điện Thanh Hóa vào đầu thế kỷ 20 lúc đến nhận bưu kiện. Hai cụ gặp nhau cũng xác nhận gốc ở Thọ Xuân.
Một trường hợp nữa: cách đây 60 năm, ông Thùy ở Phái thứ nhất thuộc chi trưởng ra đi không trở về nữa, coi như mất tích. Mãi tới gần đây mới rõ được. Nguyên là vì người con trai thứ 3 của ông Duyên Quế là ông Thơ Huân, sinh được 1 trai là ông Thùy rồi cả 2 ông bà Thơ Huân đều mất sớm. Vì thế, ông Thùy phải vất vả từ khi còn nhỏ. Lớn lên, ông đi làm thuê, buôn bán với người Mường vùng Bái Thượng, trọ ở nhà ông Cam thuộc làng Luận Văn. Ông Thùy vẫn thường đi đi về về giữa quê và Bái Thượng. Nhưng vì điều kiện sinh hoạt khó khăn, kiếm ăn hàng ngày không đủ. Mỗi khi trở về quê, cảnh chị dâu em chồng cũng chẳng tốt đẹp gì nên lần cuối cùng, vào khoảng năm 1915, ông ra đi có dặn lại người nhà là vợ sắp đến tháng sinh, phải ở lâu mới về được. Rồi từ đó, không thấy ông trở về quê nữa. Sau này mới biết, khi ở nhà ông Cam, ông Thùy đã đổi cả họ và tên thành Tạ Văn Châm. Ông Châm lấy bà Trịnh Thị Mễ quê ở làng Long Linh nội (xã Thọ Trường, huyện Thọ Xuân), cũng là người làm thuê nhà ông Cam. Ông bà sinh được 1 gái, 1 trai là bà Cốc và ông Lộc. Khi ông Lộc lên 8 tuổi thì ông Thùy mất. Bà Cốc sau lấy chồng ở làng Giao Sá và đem em là ông Lộc về cùng ở. Lúc ông Thùy sắp mất, có dặn lại vợ rằng quê ông ở Canh Hoạch, trong Họ có nhiều người làm nghề bốc thuốc và dạy học, có mộ Tổ táng ở Cồn Ốc phía đông làng, có Bà Chúa lấy vua Lê. Nếu sau này có ai lấy vợ lấy chồng ở Canh Hoạch thì phải chú ý tránh người cùng Họ…. Bà cũng dặn lại các con như vậy. Có lần về Long Linh ăn giỗ, bà đã chỉ cho các con biết quê nội. Nhưng có lẽ vì điều kiện sinh hoạt nên đã trải qua năm, sáu chục năm mà không có ai đi tìm nguồn gốc tổ tiên. Còn ở quê Canh Hoạch, lúc đương thời, một số người cũng biết rõ ông Thùy đang ở nhà ông Cam ở Luận Văn.. Ngay ông Lợi (là cháu chú cháu bác với ông Thùy) cũng xác nhận ông Thùy còn sống, nhưng không ai đặt vấn đề đi tìm. Mãi tới tháng 3 năm 1975, nhân dịp các cụ phụ lão trong huyện Thọ Xuân tập trung đắp đường giao thông kinh tế thuộc địa phận làng Canh Hoạch, trong đó có ông Nhung là cháu đích tôn của ông Thùy, nhớ lời mẹ dặn, mới đi tìm hiểu. May lại gặp đúng người họ Hà Duyên. Sau đó tiếp tục xác minh nhiều lần, nhiều mặt, khớp đúng với sự thật nên bắt đầu quan hệ và đi lại từ đó.
Qua các trường hợp trên, khẳng định rằng, rất có thể trong Họ ta còn có người ra đi đang còn sống. Nhưng vì lẽ này hay lẽ khác mà chưa có dịp trở về tìm lại tổ tiên.
Dòng họ Hà Duyên từ Đức Thủy tổ đến nay đã qua trên 20 thế hệ. Trải qua hơn 600 năm phát triển, từ đời này đến đời khác ngày càng đông đúc, mạch thọ vững bền, tuổi thọ càng cao. Các cụ thọ 70, 80, 90 tuổi thời nào cũng có. Cuộc sống ngày thêm phát đạt, phù hợp với sự đi lên của đất nước.
Gia phả cũ còn ghi: ông Hà Duyên Thoát là người: “cương như trực, mẫn như tiệp”, được nhân dân tin bầu làm xã lại, ở hàng huyện được tôn là đàn anh. Ông là người khai khoa đầu tiên của họ ta. Các con ông cũng đều đỗ đạt cao.
Đời thứ 6 có ông Duyên Cảnh (con trai thứ 4 của ông Duyên Đức), cũng là người hiểu biết rộng và có ý thức xã hội. Vào đầu thời Nguyễn, các huyện ở Thanh Hóa phải đi đào con sông Hạc. Lúc bấy giờ, tổng Phú Hà còn thuộc phủ Thiệu Thiên, ông cùng các làng đi nhận đất. Ông phát hiện thấy phần đất chia cho tổng Phú Hà quá nặng. Ông vận động hàng tổng không nhận, buộc quan trên phải chia lại, phần đất được rút bớt. Quan phủ bị bẽ mặt và tìm cách trị ông. Quan cho đòi ông đến và ra vế đối, bắt đối ngay.
Vế quan ra:
Làm thằng Hộ, làm thằng trưởng, làm thằng trai, khốn khổ trăm đường phải đi bốc đất.
Vế ông đối:
Đỗ ông Tú, đỗ ông Nghè, đỗ Tam khôi, công danh đôi chữ tít tận trời.
Vế đối và thái độ cương trực của ông làm nhiều người thán phục. Tin này đến tai quan đầu trấn. Quan biết ông là người có kiến thức nhưng tính tình kiêu ngạo. Quan muốn dùng văn tự để răn đe nên gọi ông đến, ra cho 2 câu đối:
Vế quan ra:
Hưng công đào sông Hạc, giang tay cuốc đất gánh cò cò.
Ông đối lại:
Võng phượng mắc thềm loan, sáo rủ khách nằm đưa ken két
Quan lại ra câu đối khác:
Phú Hà tổng, phú nhi bất kiêu, phú quý như đương như thị.
Ông đối lại:
Thanh Hóa trấn, thanh nhi thả yếu, thanh liêm công dịch sướng chi
Tài năng của ông làm quan Trấn cảm phục. Nhân tổng Phú Hà đang khuyết chức tổng trưởng nên quan giao cho ông giữ chức đó. Từ một người thư hộ chức dịch thấp nhất làng được lên giữ chức cao nhất của một tổng mà hàng tổng phải chấp nhận.
Đời thứ 7, có cụ Duyên Nghĩa (thường gọi là cố Cả Hội), có nhiều công lao đóng góp vì lợi ích của nhân dân địa phương, như việc cụ giúp dân kiến tạo và đề ra khoán ước duy trì nền nếp trong thôn và bồi túc các con đường vệ nông giữ cho đất đai mầu mỡ. Cụ đóng góp nhiều công sức vào việc xây dựng nhiều ngôi đình lớn của làng… Vì thế cụ được nhân dân tín nhiệm, uy tín của cụ còn lan ra cả vùng, nên năm cụ 88 tuổi, dân tôn lên 90 để 2 lần hưởng ban thọ từ dân.
Thơ cụ còn để lại 2 câu đối ca tụng công đức của cụ:
Công hữu nhân bi, ân cư lũy mông tồn cổ dám.
Đức truyền thế bảo, cốc di phất thế tạ tiền hưu;
Tạm dịch:
Công có người nghi ân tứ hai lần gìn cổ dám Đức truyền quí báu lúa để cho đời tạ tiền hưu
Và câu:
Vạn cổ cương thường chiêu nhật nguyệt.
Nhất môn từ hiếu đối càn khôn
Tạm dịch:
Muôn xưa cương thường soi nhật nguyệt
Một nhà từ hiếu sánh càn khôn
Tên tuổi công đức cố Cả Hội nhân dân còn ca tụng lưu truyền tới ngày nay. Con cháu trong Họ vẫn tiếp tục duy trì được.
Từ đời thứ 4 đến nay, trong họ ta có nhiều người làm nghề thuốc và dạy học. Hiện nay có nhiều người là bác sĩ, y sĩ, giáo viên, kĩ sư, phó tiến sĩ, tiến sĩ… ở nhiều ngành nhiều cấp, một số là sĩ quan cao cấp trong quân đội v.v. Điều đó nói lên con cháu trong Họ đã phát huy được truyền thống tốt đẹp của các cụ xưa.
Trên đây chỉ nêu lên vài nét sống đẹp của các cụ xưa. Trong cuốn Gia phả này không thể kể ra hết được.
Trong thời kỳ tiền khởi nghĩa, cụ Hà Duyên Đạt đã tham gia Tân Việt Cách mạng Đảng từ năm 1927. Sau đó, năm 1930 đã tham gia Đảng Cộng sản Đông Dương (tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam ngày nay), là Ủy viên chấp hành lâm thời Tỉnh ủy Thanh Hóa, phủ Thọ Xuân. Cụ Hà Duyên Đạt là người tham gia Cách mạng sớm nhất ở địa phương ta. Nối tiếp con đường của cụ Duyên Đạt, nhiều người trong Họ như ông Tuyển, ônh Kính, ông Hiếu, ông Chiêng, ông Cần, ông Ưởng, ông Cược… đã tham gia hoạt động cách mạng trong thời kỳ từ trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Sau Cách mạng tháng 8 thành công, trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ và bước sang thời kỳ xây dựng và bảo vệ tổ quốc, trong Họ ta luôn luôn có nhiều người hăng hái tham gia đóng góp công sức. Có người đã hi sinh cho Tổ quốc.
Chúng ta tự hào rằng: dòng họ Hà Duyên ta có truyền thống tốt đẹp. Sự phát triển toàn diện qua các thế hệ luôn phù hợp với sự phát triển chung của xã hội, của dân tộc. Ngày nay, con cháu trong Họ vẫn tiếp tục giữ gìn và phát triển những truyền thống tốt đẹp đó của Tổ tiên, ông cha.
[về đầu trang]